Lịch Sử

Khu Di Tích Gò Tháp

Hiện nay Khu di tích Gò Tháp là khu di tích cấp quốc gia đã được công nhận từ năm 1998, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa-lịch sử của dân tộc và nhân loại. Nơi đây hiện ra khỏi quần thể di chuyển của Vương quốc Phù Nam cách đây hơn 1.500 năm; có di tích 2 thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cùng nhiều tầng văn hóa dân gian. Du lịch Đồng Tháp, đến đây tìm về nguồn cội, du khách sẽ có những trải nghiệm lý thú, từ đó thêm trân trọng những đóng góp của các bậc tiền nhân đi mở cõi.

Khu Di Tích Gò Tháp
Khu Di Tích Gò Tháp

Khu di tích Gò Tháp nằm trên địa bàn hai xã Mỹ Hòa và Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, cách huyện ly. Tháp Mười khoảng 11 km về hướng Bắc, cách thành phố Cao Lãnh về hướng đông bắc 43 km (theo đường bộ và đường thủy).

Gò Tháp gồm nhiều gò nhỏ, thấp nằm trên một vùng đất pha cát, ở trung tâm khu vực Đồng Tháp Mười, có hệ thống kênh rạch chằng chịt, hệ sinh thái rừng tràm phát triển mạnh. Đặc biệt Gò Tháp là một trong 34 “di tích quốc gia đặc biệt” của Việt Nam, là 1 trong 2 di tích lịch sử và khảo cổ quan trọng trong cả nước (Khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long và di tích Gò Tháp – tại huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp).

1. Khám phá khu di tích Gò Tháp

Khu di tích Gò Tháp được biết đến từ những năm cuối thế kỷ 19 với tên gọi là Chùa năm gian (theo tiếng Pháp là Prasat Pream Loven) do các nhà khảo cổ học người Pháp phát hiện. Nơi đây xuất hiện nhiều dấu tích, di vật, hiện vật cổ gắn với nền văn hóa Óc Eo.

Các nhà khảo cổ học đã phát hiện tại địa điểm này có nhiều di tích kiến trúc xuất hiện ở các gò cao như Gò Minh Sư, Gò Tháp Mười… Hầu hết các di tích kiến trúc được tìm thấy sâu trong lòng đất, được xây dựng công phu có tường thành bao bọc xung quanh.

Di tích Gò Tháp Mười
Di tích Gò Tháp Mười

Các di tích cư trú được phân bố rộng khắp vùng đất trũng, được phát hiện ở tầng văn hóa tiếp giáp với đáy biển cổ xưa. Di tích cư trú được tìm thấy với các di vật như bếp lửa, những mảnh nồi, bình có vòi, thanh củi, cọc nhà sàn, tượng Phật bằng gỗ và các đồ vật thờ phụng và sinh hoạt như xúc xắc bằng gốm, chì lưới, bàn nghiền…

Riêng di vật, hiện vật được tìm thấy ở đây chủ yếu là các tượng thần Visnu, Siva bằng đá sa thạch, cột đá có chốt, các phiến đá có chạm khắc hoa văn và minh văn.

Ngoài giá trị về khảo cổ học, khu di tích Gò Tháp còn chứa đựng giá trị lịch sử cách mạng. Được biết, nơi đây đã từng là đại bản doanh của nghĩa quân Thiên hộ Võ Duy Dương, Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều trong thời kỳ đầu chống Pháp. Trong khoảng thời gian từ năm 1946 – 1948, Gò Tháp còn là căn cứ địa của xứ Ủy Nam Bộ, Ủy ban Hành Chính kháng chiến Nam Bộ, Khu Ủy Khu 8 và nhiều cơ quan đầu não khác.

Trong kháng chiến chống Mỹ, khu di tích Gò Tháp này là nơi đánh dấu thắng lợi của tiểu đoàn 502 (quân và dân Đồng Tháp) đánh sập Viễn Vọng Đài của quân địch. Ngoài ra, khu di tích Gò Tháp còn là một địa điểm chứa đựng các hoạt động tôn giáo và tín ngưỡng lâu đời. Nơi đây có chùa Tháp Linh, Miếu Bà Chúa Xứ, đền thờ hai vị anh hùng dân tộc Thiên hộ Võ Duy Dương, Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều.

2. Các di tích tiêu biểu trong khu di tích Gò Tháp

Quần thể di tích Gò Tháp (tính từ con lộ Mỹ Hoà đi vào) gồm có 6 di tích tiêu biểu: Gò Tháp Mười; tháp Cổ Tự; Đền thờ cụ Đốc Binh Nguyễn Tấn Kiều và mộ cụ; gò Minh Sư, Đền thờ Thiên Hộ Võ Duy Dương và miếu Bà Chúa Xứ.

1. Di tích khảo cổ Gò Tháp Mười

Di tích Gò Tháp hay Gò Tháp Mười là một di tích khởi nguồn và quan trọng nhất trong Khu di tích Gò Tháp. Gò Tháp cao hơn mặt ruộng xung quanh khoảng 3,8 m, (so với mực nước biển là 5,046 m) với diện tích khoảng 4.500 m2.

– Từ những cuộc khảo sát của nhà khảo cổ học người Pháp L.Malleret (1944) đã phát hiện trên Gò Tháp có nhiều gạch và hàng chục khối đá lớn, yoni, cột… (như 3 cột lớn bằng đá hoa cương mặt cắt ngang hình vuông cạnh 0,48 m, dài 1,56 m, 1,10m và 1,42m, một đầu có chốt đầu kia có mộng để ghép nối theo chiều cao).

Di tích khảo cổ Gò Tháp Mười
Di tích khảo cổ Gò Tháp Mười

– Ngoài những phát hiện của các học giả người Pháp ở di tích Gò Tháp, sau năm 1975 các nhà khảo cổ học Việt Nam tiếp tục nghiên cứu và phát hiện chi tiết hơn về cấu trúc nền của Khu di tích Gò Tháp được xây dựng vào thời Vương quốc Phù Nam (tồn tại trong thế kỷ thứ I-VII) với nhiều hiện vật khảo cổ có giá trị về lịch sử và văn hóa.

– Dấu tích rõ ràng nhất là kiến trúc gạch dài 17,30 m theo hướng Đông – Tây, rộng 12m (Bắc – Nam), cạnh bẻ góc, đối xứng hai phần Bắc – Nam, cho thấy kiến trúc khá quy mô và có liên quan đến nhiều kiến trúc khác xung quanh. Di vật gồm những mảnh gốm bình ấm có vòi, một số mảnh vỡ của Yoni, tượng Visnu, khuông đúc, đặc biệt có 2 tượng Visnu rất đẹp tuy không nguyên vẹn. Cho đến nay trong số các bia đá mang nội dung phản ánh về vương quốc Phù Nam có 1 tấm bia (ký hiệu K5) tìm thấy ở Khu di tích Gò Tháp, được các nhà nghiên cứu định niên đại vào thế kỷ V. Nội dung văn bia thấm đượm tinh thần Hindu giáo, Chi phái Visnu là tôn giáo phổ biến song hành cùng Phật giáo trong văn hóa Óc Eo. Quan trọng nhất là văn bia còn cho biết, chính đây là vùng đầm lầy được chinh phục bởi vua Phù Nam Jayavarman và phong cho con trai là Gunavarman cai quản.

– Trên gò có nhiều cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi. Cạnh gò có cây Trôm đã dược công nhận là cây di sản Việt Nam.

2. Di tích Tháp Mười Cổ Tự (Chùa Tháp Linh)

Chùa Tháp Linh Cách Khu di tích gò Tháp Mười chừng 100 m về phía Bắc là tháp Cổ Tự. Tương truyền có từ thời vua Thiệu Trị (1841-1847), phía trước còn có ngôi tháp thờ của người Chân Lạp. Ngôi chùa này trước kia ở Gò Tháp Mười đã được chính quyền Ngô Đình Diệm dời sang đây. Năm 1956 sau khi bị đặc công của Quân Giải phóng Tỉnh Kiến Phong đánh sập, ngôi chùa đã đượm màu hoang phế vì những vết tích chiến tranh. Hiện nay ngôi chùa cổ này đã được thay bằng một ngôi chùa mới đẹp và khang trang hơn từ sự đóng góp xây dựng của người dân.

Di tích khảo cổ Gò Tháp Mười
Di tích khảo cổ Gò Tháp Mười

Ngay cạnh chùa là một ngôi miếu có tên là Miếu Hoàng Cô tương truyền thờ em gái của Nguyễn Ánh (Vua Gia Long).

Di tích đền thần Mặt trời phía Nam chùa Tháp Linh
Di tích đền thần Mặt trời phía Nam chùa Tháp Linh

3. Di tích Đền thờ và mộ cụ Đốc Binh Nguyễn Tấn Kiều.

a) Tiểu sử:

– Nguyễn Tấn Kiều (? – 1866) là Phó tướng của Võ Duy Dương trong cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Đồng Tháp Mười vào nửa cuối thế kỷ 19.

– Tương truyền Đốc Binh Kiều là người miền Trung di cư vào miền Nam lập nghiệp ở huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường.

Đền thờ Võ Duy Dương và Đốc Binh Kiều
Đền thờ Võ Duy Dương và Đốc Binh Kiều

– Sau khi thành Gia Định thất thủ (1859), ông đến Gia Định đầu quân chống thực dân Pháp.

– Nhờ giỏi võ nghệ, ông được cử chỉ huy một đội dân dũng. Năm 1861 Đại đồn Kỳ Hòa bị giặc Pháp san bằng, ông không theo quân triều đình rút về Biên Hòa mà dẫn quân về lập căn cứ ở Sầm Giang, Long Hưng (thuộc huyện Kiến Đăng) để tiếp tục chiến đấu.

– Khi hay tin, Trương Định lập căn cứ Tân Hoà (Gò Công), Võ Duy Dương (còn gọi là Thiên Hộ Dương) lập căn cứ ở Bình Cách, Mỹ Quý (thuộc Ba Giồng, huyện Kiến Đăng), ông đem quân về hợp tác với chủ tướng Dương, được phong chức Đốc binh và rồi trở thành Phó tướng.

– Trong cuộc tấn công Gò Tháp vào tháng 4 năm 1866, thực dân Pháp đã sai các sĩ quan là: Roubé, Paris de la Bollardère Gally, Passebose, Vigny và các cộng sự là Trần Bá Lộc, Huỳnh Công Tấn, Phạm Công Khanh…dẫn một đội quân đông đảo đồng loạt tấn công tấn cả ba đồn, hòng mở đường tiến vào đại bản doanh. Võ Duy Dương, Đốc Binh Kiều cùng nghĩa quân chống trả quyết liệt, đẩy lui được nhiều đợt tiến công của địch.

– Chẳng may, lúc lên đài quan sát, Đốc Binh Kiều bị đạn của địch bắn trúng, được đưa về gò Giồng Dung điều trị. Nhưng do bị thương nặng, lại buồn rầu vì đại đồn thất thủ, ông mất ngay năm đó (1866). Nhưng cũng có người cho rằng, trong lúc đánh xáp lá cà, ông đã hy sinh tại trận chiến trên.

b) Mộ táng:

– Khi Đốc Binh Kiều mất, nghĩa quân mang thi hài ông về chôn cất tại nền đồn Trung ở Gò Tháp, đồng thời cũng làm vài ngôi mộ giả để nghi trang. Trước đây, ở Khu di tích Gò Tháp có đền thờ chung, thờ ông và chủ tướng Võ Duy Dương, đến năm 2015 UBND tỉnh Đông Tháp đã xây mới đền thờ của Thiên hộ Võ Duy Dương nên hai ông được thờ riêng. Và hàng năm, từ chiều 14 đến rạng sáng 16 tháng 11 (âm lịch), đều có tổ chức lễ hội để tưởng niệm.

– Trong dân gian còn lưu truyền bài thơ ca ngợi ông như sau:

Vì nước quên mình bởi chữ trung,

Thương dân chi sá chốn sình bùn,

Mấy năm Đồng Tháp danh vang dội,

Cọp rống ngoài truông, cáo hãi hùng,

Hai thước im lìm nơi thạch động,

Đồng bào tưởng nhớ đứng thờ chung,

Nỗi lòng nghĩ đến nhiều năm trước,

Hương lửa đều không cảnh lạnh lùng.

– Và ở huyện Cai Lậy, Tiền Giang có một ngôi trường phổ thông trung học mang tên ông.

3. Di tích khảo cổ Gò Minh Sư

Gò Minh Sư là di tích cư trú và mộ táng của người Phù Nam trong quần thể Khu di tích Gò Tháp. Dấu tích cư trú phân bố dưới chân gò và rộng khắp cánh đồng thấp xung quanh.

Gò Minh Sư
Gò Minh Sư

Tại di chỉ cư trú gò Minh Sư đã diễn ra 5 lần khai quật:

-Tháng 1-2001 đã phát hiện một khu cư trú cùng mộ táng cách chân gò Minh Sư chừng 120 m về phía Đông Nam với địa tầng còn nguyên vẹn;

Trong di chỉ tìm thấy nhiều di vật đá nhưng hiện vật chiếm tỷ lệ nhỏ. Đồ đất nung gồm mảnh ngói, tượng khỉ, dấu ấn, mảnh phù điêu, vòi yoni…

Đồ gốm khá phong phú, có tới hơn 18.000 mảnh, gồm các loại bình, vò nồi, nhiều mảnh lớn có thể phục nguyên được, có lẽ đây là những hiện vật nguyên vẹn đã bị sụp vỡ do đây là khu di chỉ cư trú và mộ táng.

Một số lớn các bình vò, nồi lớn đã được dùng để đựng than tro hỏa táng – như trong mộ M1: chiếc vò đựng xương tro có hình quả lê, cổ trụ, vành miệng đã mất, vai xuôi thân phình tròn, thu dần xuống đế hình vành khăn thấp. Gốm mịn màu ngà vàng, xương trắng xám lẫn ít sỏi laterit. Một vò khác có xương đen, chắc mịn, áo màu đỏ gạch loang lổ. Việc xuất lộ vò gốm chứa than tro, đặc biệt mật độ dày đặc của các cụm bình vò cho thấy đây là phát hiện đầu tiên về một khu mộ táng khá tập trung trong văn hóa Óc Eo.

-Tháng 3-2002, các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều hố mộ phân bố trên thềm sỏi laterit hoặc chồng chéo lên nhau; Chúng có dạng hố đào hình lòng chảo hoặc hình phễu, đáy lót cát hoặc có thêm lớp đất sét xám xanh bên dưới. Bên trên có các đồ gốm vỡ, xương thú, than tro, sỏi nhỏ và nhiều hiện vật khác…Bên cạnh hiện tượng hỏa táng có thể đã tồn tại hiện tượng hung táng hay bán hung táng. Ngoài số lượng gốm khổng lồ và nhiều loại hình hiện vật khác đã được phát hiện gồm các chất liệu đá, xương, thủy tinh, kim loại, gỗ…còn phát hiện xỉ thủy tinh, xỉ kim loại, cốc rót kim loại, mảnh vỡ của các tấm đá…cho thấy sự phát triển của nhiều nghề thủ công ở đây. Đặc điểm và địa tầng Gò Minh Sư cho thấy di chỉ được sử dụng cư trú và chôn cất trong một thời gian rất dài, khoảng từ TK I đến TK VIII sau CN.

-Tháng 4-2003 với việc khai quật di tích gò Minh Sư lần thứ ba, đã làm rõ thêm các đặc điểm của di chỉ cư trú kiêm mộ táng của di tích.

-2009 đã khẳng định đây là một trong những kiến trúc đền thờ thần Shiva thuộc nền văn hóa Phù Nam, sau khi phát hiện từng mảng lớn những khối gạch được lát theo kiểu hình trụ đứng. Từ trung tâm di tích tỏa đi các hướng là khối gạch được xếp theo hình chữ nhật với chiều dài khoảng 12 m, ở giữa có một lỗ hình chữ nhật kéo dài và cắt một cạnh của hình chữ nhật khác, có rãnh khoảng 0,5 m… Ngoài ra, trong đợt khai quật lần này, nhiều hiện vật đã được phát hiện như khuyên tai bằng vàng, vòng đeo tai bằng đồng, đầu ngựa bị vỡ, vật hình bánh xe và một số đĩa nhỏ… Đặc biệt là tìm thấy ở bờ tường khu vực phía nam một chiếc nhẫn vàng khắc hình con ốc Sankha, biểu tượng của thần Vishnu, xung quanh có chạm dây lá cách điệu. Theo anh Võ Tấn Nghĩa (Ban Quản lý khu di tích Gò Tháp) thì đây là hiện vật thuộc loại “độc bản” quý hiếm.

-2013 tiếp tục khai quật phía tây Gò Minh Sư, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một số tượng thần Vishnu bị mất tay nhưng còn nguyên chân đế và khoảng 80 hiện vật bằng vàng, có chạm khắc hình con bò rất sống động, hình bánh xe và một số đồ trang trí mỹ nghệ khác…

“Những hiện vật này nhà khảo cổ Đặng Văn Thắng cho là đồ tế lễ, cúng thần. Gò Minh Sư có 2 lớp di chỉ, trùng tu nhiều lần, lớp trên đậy lớp dưới và các nhà khảo cổ khẳng định đây là đền thờ thần Shiva”, anh Nghĩa cho biết.

Hình thức cư trú theo mùa được nhận thức khá rõ, cư trú trên các đồi gò thấp bên cạnh các lạch trũng nhỏ và quá trình bồi đắp để mở rộng diện tích sử dụng là một đặc điểm phổ biến của giai đoạn văn hóa Óc Eo ở đây. Bên cạnh các di vật Óc Eo điển hình, một số di vật ngoại nhập còn có những mảnh gốm có đặc điểm của thời tiền sử, cho thấy di tích này trong khu di tích Gò Tháp không chỉ là một trung tâm văn hóa Óc Eo phát triển, có mối quan hệ rộng rãi với thế giới bên ngoài mà còn có lịch sử phát triển lâu đời hơn những gì đã biết đến nay.

4. Đền thờ Thiên hộ Võ Duy Dương

  • Tiểu sử:

Thiên Hộ Võ Duy Dương (1827-1866), còn gọi là Thiên Hộ Dương (do giữ chức Thiên hộ), là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp (1862-1866) ở vùng Đồng Tháp Mười, thuộc Đồng bằng Sông Cữu Long, Việt Nam.

Tổ tiên của Võ Duy Dương là Võ Hữu Man từ miền Bắc vào thôn Nam Tượng lập nghiệp, đến đời Võ Duy Dương là đời thứ 6. Theo lời kể của cụ Võ Quế, 85 tuổi (1989), cháu nội Võ Duy Dương, thì ông Dương là con thứ ba trong gia đình, và thuở nhỏ ông Dương là người sáng trí, khỏe mạnh, giỏi võ nghệ. Khi cha qua đời, gia đình sa sút, ông Dương phải đi chăn trâu để sinh sống. May nhờ vị quan sở tại cảm thông hoàn cảnh nghèo khó và mến tài nên nhận làm con nuôi.

Đền thờ Võ Duy Dương
Đền thờ Võ Duy Dương

Trong một kỳ thi võ, ông cử được một lúc 5 trái linh, mỗi trái 60 cân (hai tay xách 2 trái, hai nách kẹp 2 trái, răng cắn 1 trái, nên từ đó mọi người đều gọi ông là Ngũ Linh Dương. Ông có người anh tên là Võ Duy Tân, sau này tham gia phong trào Cần Vương kháng Pháp ở Bình Định do Mai Xuân Thưởng chỉ huy. Sau khi Mai Xuân Thưởng chết, ông Tân lại theo Võ Trứ, bị Pháp bắt và xử án chém cùng với nhiều nghĩa quân khác tại Gò Chàm (Bình Định) ngày 13 tháng 9 năm Đinh Dậu (tức ngày 9 tháng 10 năm 1898), thọ 73 tuổi.

Tháng 2 năm 1859, Pháp đánh chiếm Gia Định rồi đánh chiếm thành Mỹ Tho (tháng 4 năm 1861), Võ Duy Dương cùng Thủ Khoa Huân kéo lực lượng về Gia Định đánh trả. Vì vậy, ông được phong chức Chánh quản đạo. Thành Gia Định vỡ, ông vượt biển về Kinh đô Huế, bái yết vua Tự Đức hiến kế đánh đuổi Pháp. Sau đó, ông được điều về Quảng Nam dẹp cuộc nổi dậy của người Thạch Bích (mọi Vách Đá) và được phong hàm Chánh bát phẩm Thiên hộ vào năm 1860.

Tháng 5 năm 1861, ông được sung vào phái bộ của Khâm phái quân vụ Đỗ Thúc Tĩnh vào Nam Kỳ với nhiệm vụ chiêu mộ nghĩa dũng chống ngoại xâm. Trong một thời gian ngắn, ông mộ được gần một ngàn người, trong số đó, có cả lính đánh thuê thuộc quân đội Pháp và một người Pháp là Liguet và ông được phong chức Quản cơ.

Ông đóng quân ở Bình Cách (huyện Chợ Gạo-Tiền Giang), liên kết với Trương Định ở Gò Công, Trần Xuân Hoà (Phủ Cậu) ở Thuộc Nhiêu và Đỗ Thúc Tĩnh ở Mỹ Quí. Tự giác giương cao khẩu hiệu “Cần Vương” chống Pháp, nghĩa quân lấy Đồng Tháp Mười là vùng rừng đầm lầy, hiểm trở vào bậc nhất ở Nam Bộ thời bấy giờ làm căn cứ. Từ đây, nghĩa quân dùng chiến thuật du kích đánh Pháp trên cả một vùng rộng lớn từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Đồng Tháp, gây cho quân Pháp nhiều tổn thất.

Giữa lúc lực lượng nghĩa quân đang quyết chiến, thì triều đình Huế ký Hòa ước Nhâm Tuất (1862). Ngay sau đấy, triều đình Huế buộc các tổ chức nghĩa quân phải hạ khí giới. Không tuân lệnh, ông bị triều đình tước binh quyền và sai người lùng bắt (Phan Thanh Giản nhận lệnh triều đình, sai quản cơ Trần Văn Thành truy đuổi).

Sau, Thủ Khoa Huân, Trương Định lần lượt hy sinh. Tuy nhiên, Võ Duy Dương cùng với các nghĩa sĩ khác như Nguyễn Tấn Kiều (tức Đốc Binh Kiều), Trần Kỳ Phong, Thống Bình, Lãnh Binh Dương, Thương Chấn, Thống Đa, Quản Văn, Quản Là,…vẫn không hề nản chí.

Ngày 14 tháng 4 năm 1866, Pháp huy động một lực lượng gồm 1.000 quân thủy bộ cùng nhiều tàu chiến, đại bác chia làm ba mũi đồng loạt tiến công từ ba hướng Cần Lố, Cái Nứa và Bắc Chiêng, quyết đánh chiếm sở chỉ huy của nghĩa quân. Nhiều trận đụng độ ác liệt đã xảy ra, làm quân Pháp bị tiêu hao không ít, nhưng trước sức công phá của vũ khí mạnh, nghĩa quân phải rút đi, sau khi Đồn Trung bị đánh hạ. Theo Hồ sơ cá nhân của Trần Bá Lộc mang số SL. 311 trong Văn khố Quốc gia, thì ông Lộc có tham gia trận này, và sau đó được thực dân Pháp tặng thưởng Danh dự Bội tinh bạc cũng vào tháng 4 năm đó.

Sau khi rút khỏi Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương đem quân phối hợp với con của Trương Định là Trương Quyền và thủ lãnh người Khmer là Acha Xoa, tiếp tục đánh Pháp nhiều trận trước khi suy yếu dần.

  • Mộ táng:

Để tưởng nhớ Võ Duy Dương, tại Gò Tháp (xã Mỹ Hòa, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp), người dân đã lập đền thờ ông và đã được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia. Tại nơi ông sinh ra (xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn), năm 1997, dòng họ đã góp tiền xây dựng đền thờ và hàng năm tổ chức tế lễ.

Gần đây, sáng ngày 15 tháng 12 năm 2007 Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam trao tặng cho đền thờ Võ Duy Dương tại xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn một tượng đồng phác họa chân dung ông, trong chương trình “Mỗi người một giọt đồng đúc tượng danh nhân”.

Tại đền thờ ông và Đốc Binh Kiều ở Gò Tháp có câu đối:

Sử sách sáng chói danh Thiên Hộ,

Bia miệng lưu truyền tiếng Đốc binh.

Ở đây cũng còn lưu truyền câu ca dao:

Chiều chiều mây giục gió vần

Cảm thương Thiên Hộ xả thân cứu đời!

Ngày 14 tháng 11 âm lịch hằng năm, là ngày giỗ chung hai ông.

5. Di tích Miếu và gò Bà Chúa Xứ

Tại cuộc khai quật gò Bà Chúa Xứ năm 1984, các nhà khảo cổ đã đưa ra khỏi lòng đất một kiến trúc khá lớn nằm trong lòng gò với kích thước 20,90 x 13,40m có cạnh bẻ góc dài ngắn khác nhau, phần nền và móng có những ô vuông xây gạch, có chỗ dày đến 1,4m. Mặc dù phần kiến trúc bên trên đã bị phá hủy hoàn toàn nhưng các nhà khảo cổ cũng có thể căn cứ vào dấu tích nền móng và những mảnh đá kiến trúc còn lại để xác định đây là một đền thờ Hindu giáo được xây dựng khá chuẩn mực, có niên đại vào thế kỷ VI.

Với những giá trị lịch sử độc đáo không chỉ của dân tộc mà còn của cả nhân loại, khu di tích Gò Tháp đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1998.

Miếu thờ Bà Chúa Xứ
Miếu thờ Bà Chúa Xứ

Ngày 26/12/2012, tỉnh Đồng Tháp long trọng tổ chức lễ đón nhận Di tích quốc gia đặc biệt đối với Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Gò Tháp (Khu di tích Gò Tháp). Đây là niềm vinh dự, tự hào lớn lao đối với người dân Tháp Mười nói riêng và người dân Đồng Tháp nói chung.

Khu di tích Gò Tháp là một trong 34 “di tích quốc gia đặc biệt” của Việt Nam, là 1 trong 2 di tích lịch sử và khảo cổ quan trọng trong cả nước (Khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long và di tích Gò Tháp – tại huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp).

Khu di tích Gò Tháp hội tụ ba loại hình: di tích kiến trúc, di tích cư trú và di tích mộ táng. Đây còn là những chỉ dấu quan trọng về các phương diện lịch sử, chính trị, kinh tế, nghệ thuật, tôn giáo của nền văn minh cổ xưa, rực rỡ gắn với Vương quốc Phù Nam từ hàng nghìn năm trước. Ngoài giá trị khảo cổ, lịch sử, Gò tháp được xem là tâm điểm của vùng Đồng tháp Mười, một trong số ít nơi còn lưu giữ nét hoang sơ của thiên nhiên, với những thảm thực vật phong phú đặt trưng của vùng đất ngập nước.

Ngoài ra, Khu di tích Gò Tháp còn có các thiết chế tôn giáo và tín ngưỡng cổ truyền như: tháp cổ tự, đền thờ, miếu bà Chúa Xứ, mộ Hoàng Cô, nền Tháp cổ và nhiều giai thoại dân gian mang màu sắc huyền bí, tâm linh.

Nếu so với những khu di tích khác của văn hóa Óc Eo thì khu di tích Gò Tháp tương đương về quy mô, số lượng và loại hình di tích. Song những bí ẩn trong lòng đất vẫn còn tiềm tàng nhiều bí ẩn, cần phải tiếp tục nghiên cứu và khám phá…

Không chỉ mang dấu ấn của một nền văn hoá cổ xưa, Khu di tích Gò Tháp còn là nơi chiến đấu và ngã xuống của không ít anh hùng dân dộc. Chính nơi đây là đại bản doanh của nghĩa quân Thiên hộ Võ Duy Dương, Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều thời kỳ đầu chống Pháp. Ghi dấu đậm nét sự chiến đấu, hy sinh anh dũng, người dân địa phương đã lập đền thờ phụng 02 vị anh hùng dân tộc ngay trên vùng đất linh thiêng này.

Không chỉ vậy, vùng đất này sau còn là căn cứ địa của Xứ ủy Nam bộ, nơi được mệnh danh là “Thủ đô kháng chiến” với Ủy ban hành chính kháng chiến Nam bộ, Khu ủy khu 8, in dấu tích hoạt động cách mạng của các cán bộ cao cấp của Đảng như: đồng chí Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Trần Văn Trà và nhiều đồng chí khác.

Người dân Đồng Tháp với quyết tâm bảo tồn và phát huy giá trị của Khu di tích, tin rằng trong tương lai không xa, Khu di tích Gò Tháp sẽ là một trung tâm văn hóa quan trọng của tỉnh và của khu vực, vừa mang tính hiện đại vừa mang những giá trị văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc.

Cảnh quan thiên nhiên hoang sơ
Cảnh quan thiên nhiên hoang sơ

Để đến thăm và ngưỡng mộ Khu di tích Gò Tháp bạn có thể đến bất kỳ lúc nào. Nhưng trong năm có hai kỳ lễ hội lớn vào ngày rằm tháng 3 và rằm tháng 11 âm lịch nhằm tưởng nhớ công lao chiến đấu chống giặc giữ nước của hai vị anh hùng dân tộc đã có công giữ nước, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.

Khu di tích lịch sử Gò Tháp thực sự là điểm đến lý tưởng cho du khách trong những chuyến du lịch miền Tây ngắn ngày. Du khách hãy tạm gác những bộn bề, lo toan của công việc, tạm lánh xa những ồn ào náo nhiệt của phố thị và cùng Viet Fun Travel thực hiện chuyến du lịch về Đồng Tháp để khám phá những điều thú vị, độc đáo chỉ có trong khu di tích Gò Tháp.

 

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button