Lịch Sử

Di Tích Lịch Sử Đền Mây Ở TP Hưng Yên

Hiện nay Di tích lịch sử Đền Mây toạ lạc tại khu phố Đằng Châu, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên trong một khung cảnh hữu tình, thơ mộng nên có câu ca: “Trăm cảnh, nghìn cảnh không bằng bến Lảnh, đò Mây”.

Đền là nơi tôn thờ tướng quân Phạm Bạch Hổ, một vị tướng tài ba của nước ta trong thời kỳ đầu độc lập tự chủ. Ông sinh ngày 10 tháng Giêng năm Canh Ngọ (910). Tương truyền, mẹ ông nằm mộng thấy Sơn Tinh và Hổ trắng mà có mang nên sau khi sinh đã đặt tên là Bạch Hổ.

Cổng Tam quan Đền Mây
Cổng Tam quan Đền Mây

Ngay từ nhỏ, Phạm Bạch Hổ đã nổi tiếng ham học, có tư chất thông minh, tính tình nóng nảy, cương trực. Lớn lên, Bạch Hổ có thân hình vạm vỡ, mạnh mẽ, thông minh hơn người, văn võ song toàn. Ông từng làm Hào Trưởng đất Đằng Châu, là tướng tài của Dương Đình Nghệ. Ông có công phù giúp Ngô Quyền đánh tan quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào năm Mậu Tuất (938). Khi Ngô Quyền xưng Vương, đặt quốc hiệu, đóng đô ở Cổ Loa, ông lui về vùng đất Đằng Châu, bảo vệ an ninh cho vùng xung yếu này. Đến thời Hậu Ngô Vương, phong ông làm Phòng Át, trấn giữ vùng biển Hải Đông. Phạm Bạch Hổ về Đằng Châu xây dựng lũy thành làm lỵ sở. Ngoài ra, ông còn giúp dân khai khẩn đất hoang, mở mang đồng đất, cấy trồng làm cho dân trong vùng được no ấm. Khi Hậu Ngô Vương mất, các hào kiệt nổi lên cát cứ từng vùng. Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đằng Châu và là một trong 12 sứ quân thời đó.

Vào năm 968, khi Đinh Bộ Lĩnh giương cao ngọn cờ đại nghĩa, đánh dẹp các sứ quân. Phạm Bạch Hổ nhanh chóng nhận ra sức mạnh chính nghĩa đang lên của nghĩa quân Hoa Lư và cũng là sức mạnh của chính nghĩa thống nhất đất nước nên ông đã quy thuận. Phạm Bạch Hổ được Vua Đinh phong đến Thân Vệ Đại tướng quân và ông đã lập được nhiều công lao trong sự nghiệp thống nhất đất nước của Đinh Tiên Hoàng. Phạm Bạch Hổ mất ngày 16 tháng 11 năm 983, ông được vua Lê phong là Đằng Vương, sắc cho dân lập đền thờ ở quân doanh và suy tôn ông làm Thành hoàng. Đền xây dựng xong, Vua Lê phong tặng ông là “Khai thiên hộ quốc thượng đẳng tối linh thần”.

Khu thờ chính Đền Mây
Khu thờ chính Đền Mây

Theo truyền ngôn của người dân nơi đây, Di tích lịch sử Đền Mây được khởi dựng từ rất sớm với quy mô lớn. Trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo dấu ấn kiến trúc hiện nay của ngôi đền mang đậm phong cách thời Hậu Lê đan xen phong cách kiến trúc Nguyễn. Di tích lịch sử Đền Mây có tổng thể kiến trúc kiểu chữ Tam gồm: Tiền tế, Trung từ và Hậu cung với nhiều mảng chạm khắc sinh động mang giá trị mỹ thuật cao.

Đền Vua Mây
Đền Vua Mây

Hiện nay, Di tích lịch sử Đền Mây còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị lịch sử – văn hoá, nghệ thuật như: Đại tự, kiệu Bát cống, châm thư và18 đạo sắc phong qua các triều đại phong kiến… Đây là những di sản văn hoá vô giá rất cần được gìn giữ, bảo vệ và khai thác, phát huy giá trị.

Hàng năm, Di tích lịch sử Đền Mây thường tổ chức lễ hội vào ba dịp: Ngày mồng 8 đến 16 tháng Giêng kỷ niệm ngày sinh; ngày 12 đến 18 tháng 11 âm lịch kỷ niệm ngày mất của Tướng quân. Ngoài ra, nhân dân còn kỷ niệm ngày mất của thân mẫu Phạm Bạch Hổ từ ngày 16 đến 24 tháng 6 âm lịch. Đây là dịp thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, biết ơn công lao của vị thần có công với đất nước, với vùng quê này.

Với những giá trị tiêu biểu, đặc sắc về lịch sử, văn hoá và kiến trúc nghệ thuật, Di tích lịch sử Đền Mây được Bộ Văn hóa – Thông tin và Thể thao (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích “Lịch sử và kiến trúc nghệ thuật” năm 1992 và là một trong 16 điểm di tích thuộc khu di tích quốc gia đặc biệt Phố Hiến. Đây không chỉ là niềm tự hào của người dân thôn Đằng Châu mà còn là niềm vinh dự của người dân Hưng Yên.

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button